-
-
- TỪ ÁO CÀ SA ĐẾN THẬP
TỰ GIÁ:
- MỘT SỰ PHÁ SẢN CỦA TỰ
DO
-
- Trần Kiêm Đoàn
- Lạm dụng Tự Do để bôi bác
hay xâm phạm Tự Do của kẻ khác là Một Sự Phá Sản của Tự Do.- Linh
mục Aloysius Pieris

Đạo: Con Đường
hay Đền Thờ?
Trong
giới hạn lịch sử ngắn ngủi của loài người trên trái đất, theo nhà
khảo cổ Pete Rainier, tính từ thời thượng cổ đến nay, có hơn 1000 tôn
giáo đã xuất hiện. Trong đó, có chừng một trăm tôn giáo còn đứng vững
cả trăm năm và một chục tôn giáo đứng vững cả ngàn năm. Trong thời
đại chúng ta đang sống, những tôn giáo có tuổi cả ngàn năm cũng không
nhiều, nhưng được loài người biết đến nhiều nhất vẫn là: Thiên
Chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo, Ấn giáo.
Một tôn giáo đứng vững cả ngàn
năm là một tôn giáo đã trải qua biết bao nhiêu thử thách: Thử thách của
đức tin, thử thách trước những nỗ lực đả phá, thù hằn, mê cuồng
và bôi bác. Nếu một tôn giáo xuất hiện mà chỉ có sự chiêm bái, tung
hô và thờ phụng thì đó chẳng phải là một tôn giáo đích thực mà là
một đền thờ, một nơi cung nghinh lễ bái để cho con người tới van xin
và cầu nguyện! Nơi đó chỉ có chuyện kể, huyền thọai và lòng tin mà
không cần đến hay không có kinh điển, triết lý, truyền thống, tu sĩ làm
cơ sở. Bởi vậy, một ngôi chùa Phật giáo hay một nhà thờ của Thiên
Chúa giáo hoàn toàn khác từ bản chất đến lễ nghi với đền Quan Thánh,
lăng Tả Quân, Am Ông, Miếu Bà...
Nếu quan niệm tôn giáo không phải
là một miếu thờ im lìm muôn năm dưới bóng cây đa đầu làng, mà là một
sinh thể sống động thì phải đưa tôn giáo lên trên trục quay của cuộc
sống con người. Trong lịch sử các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo và
Thiên Chúa giáo là hai tôn giáo lớn nhất. Và cũng vì ở vị thế nổi bật
như thế, nên bên cạnh sự chiêm bái và thờ phụng xuôi chiều của tín
đồ, vẫn thường xuyên có sự lên tiếng nghịch chiều từ phía bất đồng
hay đối nghịch. Trong mắt nhìn của một cá nhân quan niệm tôn giáo là một
con đường sinh động chứ không phải là một miếu thờ rêu mốc im lìm,
tôi nghĩ rằng sự lên tiếng cho dù mang tính phê phán, nghịch chiều nhưng
có phong cách thích hợp và không nhằm đả phá hay mạ lỵ một tôn giáo vẫn
được coi như là một sinh hoạt tinh thần tích cực và lành mạnh. Tuy
nhiên, khi luận bàn về tôn giáo, có hai điều cấm kỵ mà một tu sĩ Thiền
Tông gốc người Anh, thượng tọa Biazhana đã viết trong sách Cẩm Nang của
Người Tỵ Nạn rằng: "Sử dụng văn chương hý luận, lời lẽ ngạo
mạn và trưng dẫn kiến thức nông cạn, lý luận chủ quan và cuồng tín
khi nói về một tôn giáo sẽ không bao giờ có sức thuyết phục người đọc
mà sẽ gây nên một sự phản tác dụng: Đó là người viết tự tố cáo
bản chất thô bạo và sự nông nổi của chính mình"! (The Handbook
for Refugees, Bataan 1982, tr. 145)
Trong một tinh thần cởi mở và đối
thoại khi nói về tôn giáo như đã trình bày trên đây, tôi xin trình bày với
quý bạn đọc một tập sách liên quan đến chuyện tôn giáo của Nguyễn
Huệ Nhật.
Từ Áo Cà Sa đến
Thập Tự Giá
Đây là tên của một tập sách tập
sách dày 300 trang và in ấn cũng rõ ràng. Hình bìa chụp chân dung tác giả
mặc áo cà sa vàng, đứng bên tường hoa giấy màu hồng leo quanh lưới trông
lờ mờ như dây kẽm gai. Và phía góc chân trời nổi lên cây thập tự
giá màu xám gắn trên một điểm tựa không có hình thù rõ rệt. Hình bìa
sau là ảnh chụp của Huệ Nhật và thi sĩ Bùi Giáng.
Khi đọc và bàn một tác phẩm, nếu
không phải là bạn thân, tôi rất ngại đề cập đến đời tư của tác
giả. Trong trường hợp của Huệ Nhật thì lại khác. "Dữ kiện"
làm nền tảng cho lý luận và chứng minh trong tập sách chính là cuộc đời
và sự suy nghĩ của anh. Bởi vậy, "thân thế và sự nghiệp" của
anh là linh hồn tác phẩm của Huệ Nhật. . Lối văn trong sách anh không phải
là văn chương sáng tạo mà cũng chẳng phải là ngôn ngữ nghị luận mà tự
luận hay tự sự thì đúng hơn. Nguyễn Huệ Nhật đã tự kể lể về cuộc
đời của mình trong tập sách như sau.
Tác giả Huệ Nhật, theo tiểu sử
ghi trên bìa sau của sách, cùng tuổi với tôi; nghĩa là cùng một thế hệ
"chiến tranh Việt Nam" – một thế hệ mà niềm tin, tư tưởng, và
ước vọng thường xuyên bị thử thách từ chân đến giả; chao đảo từ
tả đến hữu; lung lay từ gốc đến ngọn theo đà ác liệt của cuộc chiến
trên quê hương. Phải chăng vì thế mà tôi vừa chia sẻ nhưng cũng vừa
"ngờ ngợ" khi nhận ra sự thiếu chân xác và thấy rõ nhiều điều
không thật trong cái nhìn của Huệ Nhật về thực tiễn xã hội và thực
trạng chính trị – mà thế hệ chúng tôi vừa là chứng nhân mà cũng vừa
là nạn nhân – được thể hiện rõ nét hay bàng bạc từ đầu đến cuối
tác phẩm.
Thật ra, trên tư thế của một độc
giả, cuộc đời tư của tác giả có như thế nào chăng nữa cũng chẳng có
gì quan trọng. Thế Lữ có tung bảo kiếm hay nằm bẹp hút thuốc phiện
ở phố Khâm Thiên khi làm bài thơ "Hổ Nhớ Rừng" thì đâu có gì
khác nhau khi đọc lên bài trưòng ca bi tráng bất hủ của ông. Hàn Mặc Tử
có làm thơ trong cơn quằn quại đau đớn của bệnh tật thì thơ ông vẫn
là những viên ngọc quý trong thi ca.
Trong phần tiểu sử và lời giải
bày tâm sự, suốt một đời Huệ Nhật chưa được yên nghỉ. Như một đứa
trẻ bơ vơ bị ném ra quá sớm giữa dòng đời xuôi ngược, anh đã vật vờ
đi từ cực đoan nầy đến cực đoan khác. Tuổi trẻ anh vào chùa đi tu
theo Phật Giáo. Sau đó anh bỏ tu lấy vợ, theo phong trào phản chiến
"chống Mỹ cứu nước". Sau năm 1975, khi cộng sản vừa chân ướt
chân ráo chiếm Sàigòn, anh liền lãnh đạo chương trình lo cho 1500 người
hồi hương bị cộng sản nghi là CIA bỏ tù trong một thời gian ngắn (!?).
Tiếp theo bị vợ bỏ, anh liền lấy vợ lần thứ hai, vợ bỏ, gia đình
ruồng bỏ, anh em hất hủi, cháu chắt đánh đập, "xù Phật theo
Chúa" và những sự đổi thay tương tự của anh về đời sống vật
chất lẫn tinh thần.
Huệ Nhật liên tục đổi đạo, đổi
đời, đổi vợ, đổi niềm tin, nên đức tin của anh cũng trôi nổi
"thuận bên nào cào bên ấy", chẳng biết đâu là định hướng, bến
bờ như lời nhận xét của người em ruột thịt.
"Từ một chú bé sáng trường
làng, chiều chăn trâu, đã húi đầu hôm sớm kinh kệ, học hành đạo pháp,
qua một thập niên lên đến chức đại đức. Thạo Phật pháp, biết rõ ngọn ngành rồi
"xù" Phật. Đến cuối thập niên 70
bắt đầu biết đến kinh thánh, tin Chúa. ... Một ngày nào đó chắc anh
xù Chúa của giáo phái Tin lành nhảy qua rao giảng đức tin với Mohamét."
(Trang 16)
Và cũng theo dòng đối thọai giữa
Huệ Nhật người em tên Thúc đó, anh đã diễn dịch ý của Thúc khi nói về
hòan cảnh xuất thân của anh rằng:
"Riêng anh, nhờ cơm chùa mới
có một kiến thức như ngày hôm nay. Cả gia đình anh đều là thứ lỗi đạo
con khinh bố, vợ chưởi chồng. Câu văn của Thúc khá cụ thể khi diễn tả
ý tưởng nầy khiến anh có cảm tưởng như em đã hàm ý cho rằng cha mẹ
của anh cũng chẳng ra gì mới sinh ra một bầy con vô giáo dục như thế."
(Trang 284)
Huệ Nhật còn có một người vợ
thứ hai và một đứa con trai đang sống tại Mỹ. Theo Huệ Nhật thì người
vợ đó nguyên là "Một đặc công trinh sát Việt Cộng và hiện đang
hoạt động trong công tác kiều vận tôn giáo trong giới Tin lành tại Mỹ"
(?). Cũng theo Huệ Nhật thì đứa con trai ở Mỹ đang coi Huệ Nhật
"như một thằng cha khốn nạn"
Có đọc văn chương và ý tưởng của
Huệ Nhật, mới thấy hoàn cảnh xuất thân của anh theo sự nhận xét của
người em như trên đã góp phần chủ đạo hình thành con người và nhân
cách của Huệ Nhật sau nầy.
Con người và
phong cách của Huệ Nhật thể hiện qua tập sách
Tập sách "Từ áo cà sa đến
thập tự giá" là một sự tập hợp tùy nghi, không có chương mục hay
hệ thống rõ ràng. Đó là tập hợp những bức thư trả lời từng đọan
một của Huệ Nhật cho một bức thư dài của người em tên Thúc ở Mỹ.
Thư của Thúc với ngôn ngữ châm biếm, ca tụng Huệ Nhật lên tận mây
xanh ở chỗ nầy; rồi mỉa mai đá anh lăn lóc ở chỗ khác. Người đọc
không cần phải bận tâm đặt câu hỏi là có thật một bức thư như thế
hay không? Vì dù có hay không thì đây cũng chỉ là một cách phỏng theo mô
thức luận lý rất cổ điển như "Ngư Tiều Vấn Đáp" hay "Lục
Súc Tranh Công" trong cổ văn Việt Nam hay kiểu "Myth" (Huyền thoại)
và "Reality" (Thực chất) của Tây phương nhằm mục đích làm sáng
tỏ một vấn đề còn mù mờ đang nằm trong vòng tranh cãi. "Vấn
đề còn mù mờ ..." ở đây chính là cuộc đời và hành tung trình
làng một cách bất nhất của Nguyễn Huệ Nhật.
Càng đi sâu vào nội dung của
những điều Huệ Nhật đã viết ra, nhất là những trang anh viết về Phật
giáo, tôi càng cảm thông hơn với những điều anh tự giới thiệu về thân
thế và sự nghiệp của anh.
Đúng là Huệ Nhật không có
"duyên" với đạo Phật thật!
Không rõ nguyên nhân là vì Huệ Nhật
không được tu học và thụ giáo một cách nghiêm túc với các tu sĩ đi
trước ở chùa, hay tại anh không có "căn cơ" học kinh điển nhà
Phật một cách có hệ thống, nhưng rõ ràng là Huệ Nhật đã hết sức bối
rối trước lý thuyết Phật học như lời anh thú nhận rằng:
"Ngày xưa đi tu trong Phật giáo,
anh (Huệ Nhật) học những giáo lý sâu xa và phức tạp khiến cho sự tu
hành có cái vẻ cao siêu, nhưng với anh thì rất mệt mỏi và gặp nhiều
mâu thuẫn khó nói lắm." (Trang 22). Sự mệt mỏi và "mâu thuẫn
khó nói" trong đức tin tôn giáo và trước những vấn nạn của triết
học là bức tường lửa ngăn chận sự thâm nhập của kiến thức vào tri
thức. Chính sự khẳng định nầy đã lý giải tại sao Huệ Nhật tu ở
chùa trong bao nhiêu năm mà chẳng có chút "thiện duyên" nào để hiểu
và hành Phật giáo.
Huệ Nhật tâm sự với người
em rằng: "Anh gặp nhiều bạn bè, dù thân đến mấy họ cũng cho rằng
Huệ Nhật là kẻ xù Phật hay phản đạo. Thế nhưng anh biết rất chắc là
họ chưa hề thấy Phật là ai cả ngoài những trang kinh trên giấy và ảnh
tượng trong chùa cộng với truyền thống tôn giáo lâu năm. Cũng có người
đã cởi áo tu, ra đời sống sa đọa vẫn không bị ai nói người đó là
phản đạo." (Trang 172) Có thật là Huệ Nhật không hiểu ý niệm
"phản" trong đời sống văn hóa Việt Nam mang một ý nghĩa như thế
nào chăng? "Phản" trong trường hợp phản quốc, phản chủ, phản
đạo, phản thầy... không chỉ có nghĩa là chống lại mà còn có nghĩa là
làm thương tổn, hãm hại. Chó phản chủ là chó cắn lại chủ; kẻ phản
quốc là kẻ làm thương tổn đến quyền lợi và danh dự giống nòi; kẻ
phản đạo là kẻ đã ra khỏi đạo rồi nhưng vẫn manh tâm bôi bác đạo.
Người Việt mà đã mắng ai là "đồ phản" thì có nghĩa là kẻ
đó đáng khinh khi và nguyền rũa.
Huệ Nhật chê nhiều người chưa
hiểu ông Phật là ai. Riêng bản thân Huệ Nhật thì lại hiểu ông Phật
như thế nầy: "Chưa ai thấy Phật bằng con mắt phàm được cả.
Ông Phật thiệt bằng xác thịt cũng đã thành tro rải khắp thế giới nầy
rồi. Ông Phật ý niệm là một ông Phật không phải ông Phật. Ông Phật
tư tưởng lại càng không phải ông Phật. Ông Phật hình tượng lại bị
giáo lý nhà Phật cho là tà đạo." (Trang 82 & 83). Nghe đến đây,
có lẽ người ta thắc mắc về sự hiện hữu của ông Phật thì ít, mà
thắc mắc về đầu óc của Huệ Nhật có tĩnh táo hay khôn.g thì nhiều
vì không ai hiểu anh đang muốn nói lên điều gì: Là anh đang phản bác, phủ
nhận hay là "tái định nghĩa" về bản chất của ông Phật?
Vì giới hạn của một bài báo,
tôi sẽ không dừng lại để phân tích vô số những quan điểm và khái niệm
lệch lạc – có chỗ ngây ngô và mâu thuẫn với thực tế – của Huệ
Nhật trong tập sách nầy thuộc về nhiều lĩnh vực nhân sinh khác, mà chỉ
xin phép dừng lại một đôi chỗ có liên quan đến Phật giáo Việt Nam thời
cận đại.
NÓI VỀ TÔN
GIÁO
Tưởng cũng cần nói thêm rằng,
tôi là một người theo đạo Phật, nhưng lại thuộc vào hàng Phật tử
không ngoan đạo. Nguyên nhân là vì tôi thường bị dị ứng với tín điều.
Tôi không tin vào bất cứ điều gì vô điều kiện; dù đó là lời Phật
dạy thì tôi vẫn cứ suy nghĩ quasự lý luận của đầu óc mình để xem
thử điều đó có hợp lý hay không trước đã. Bởi vậy, tôi không tán
đồng những phản ứng đầy cảm tính như một số Phật tử mới thọat
nghe ai đả kích Phật giáo hay phê phán các thầy, các sư cô thì đã nhảy
choi choi lên đòi "bảo vệ đạo pháp" rồi! Tôi quan niệm chùa là
nơi để tu học chứ không phải là một đền thờ để đến đó sì sụp
lạy cầu phước, cầu tài. Tôi thích lý thuyết nhà Phật không phải vì
đó là tôn giáo tôi theo hay vì tam tạng kinh điển vẫn thường được các
nhà học Phật đem làm núi Thái Sơn để thuyết phục người ta tin Phật,
mà vì tôi có nhiều quyền tự do chọn lựa trong đạo Phật. Dù có đến
chùa đảnh lễ thuần thành hay ở nhà chọn cách tu học nào cho hợp với
hoàn cảnh và căn cơ của cá nhân mình thì vẫn mang ý nghĩa tích cực
trong sinh hoạt Phật giáo. Con người trong đạo Phật nhìn nhau không kỳ thị
sắc màu hay giả tướng vì trong mỗi ông vua hay trong từng người cùng khổ
đều có Phật tánh bình đẳng như nhau. Và tinh thần vô ngã của Phật
giáo làm cho người kiêu căng, khó tính nhất cũng cảm thấy nhẹ nhàng khi
Phật cho rằng Tam tạng kinh điển cũng như chiếc bè dùng để qua sông mà
thôi, khi qua đến bờ giác ngộ rồi thì chiếc bè cũng sẽ vất đi. Chánh
pháp cũng chỉ là phương tiện dùng tạm thời, cuối cùng phải vất bỏ
huống hồ là Tà pháp để bám vào đó mà cãi nhau.
Bởi vậy, mọi sự nhìn dưới nhãn
quan Phật giáo đều chỉ có một giá trị biểu trưng và tương đối. Viên
thuốc là ân nhân của con bệnh nhưng lại là kẻ thù của lũ vi trùng!
Tôi vẫn mến mộ một người đả
kích Phật giáo có chứng lý minh bạch và luận điểm vững vàng vì họ
có tâm thành và trí tuệ hơn là phải nghe một kẻ ca ngợi Phật giáo
bâng quơ vì tâm mờ, trí cạn. Trong trường hợp của Huệ Nhật, vấn đề
đặt ra ở đây không phải là anh đả kích hay ca ngợi Phật giáo, mà vấn
đề then chốt chính là anh có đủ trình độ và kiến thức để nói về
Phật giáo hay không và anh nói đến Phật giáo bằng cái tâm nào? Cái tâm
của con bệnh, cái "tâm" của lũ vi trùng, hay cái tâm của một kẻ
bàng quan trước viên thuốc có tên là "cứu khổ" của Phật giáo.
Bên cạnh học vấn, kiến thức
và ý chí, còn phải cần đến một sức mạnh vô hình nhưng tối quan trọng
để hiểu Phật giáo: Đó là cái Tâm. Ngày xưa, Lương Vũ Đế hỏi
sư Tịnh Quang:
- - Tam Tạng Kinh Điển của Đạo Phật bao la quá,
đọc cả đời người không hết. Có cách nào rút ngắn được chăng?
- Sư đáp:
- - Tâu bệ hạ, ngắn bao nhiêu là vừa!
- Vua hỏi:
- - Chừng nào là ngắn nhất?
- - Một chữ!
- - Chữ gì mà nhiệm mầu đến thế?
- - Chữ Tâm!...
Năng lực của Tâm trong đạo Phật
cũng như nhịp đập của trái tim trong thân xác con người. Người không
có trái tim là người máy. Học Phật mà vô tâm là dính mắc vào một
"cuộc du hành tôn giáo" không có lối ra; là đang gối đầu lên biển
trầm luân mà cứ ngỡ rằng mình đứng bên bờ giác ngộ.
Càng tìm hiểu về Phật giáo tôi lại
càng ít ngạc nhiên hơn về "tà kiến" và "chánh kiến" thường
xuyên tranh đấu và hiện diện trong mỗi con người. Bởi vậy, tôi sẽ
không ngạc nhiên nếu có trường hợp như Huệ Nhật, một người đi tu và
ăn cơm chùa mòn răng trong bao nhiêu năm mà vẫn chưa hiểu gì hay hiểu theo
"tà kiến" của bản thân mình về đạo Phật, chỉ vì vắng bóng
cái Tâm chân chính. Trong lúc cái tâm trung thực tự nó đâu cần phải vào
chùa hay tụng kinh gõ mõ mới có được.
1. HUỆ NHẬT TU
NHẬP VÀ TU XUẤT NHƯ THẾ NÀO?
Từ một làng nhỏ ở Quảng Trị,
Nguyễn Đạo Ủy (tên thật của Huệ Nhật) cùng người anh ruột đã xin
đi tu theo đạo Phật tại Huế. Sau đó các thầy ở Huế gởi anh vào học
học tại Nha Trang. Ở Huế và Nha Trang, anh chỉ ham "lên thánh" bằng
con đường tắt qua hành động tự thiêu nên bị đồng môn và quần chúng
giễu cợt đặt tên là "Thánh Chuối!"
Huệ Nhật đã lập đi lập lại
nhiều lần từ đầu đến cuối tập sách về cái gọi là "tự thiêu
hụt" của anh. Đời này đã "hụt" rồi thì không tính. Trúng
số hụt thì vẫn nghèo, tình hụt thì vẫn cô đơn. Tổng thống hụt thì
vẫn là dân thường. Tự thiêu hụt thì vẫn sống như muôn ngàn người khác.
Tuy nhiên, trong trường hợp Huệ Nhật, anh lại quan niệm khác: Đã không
tìm được vinh quang trong cái "trúng" thì cũng ráng tìm hơi hưởng
trong cái "hụt". Anh nhất quyết không chịu để tay trắng bàn tay
mà cần phải nắm được một cái gì, dù vật đó có thể làm cho bàn tay
anh vấy bẩn.
Lần thứ nhất, Huệ Nhật kể lại
rằng, năm 1963, khi mới 18 tuổi, vừa mới đi tu theo Phật Giáo được 4
năm, anh đã tình nguyện tự thiêu 2 lần: Một lần tại Nha Trang, tháng
8/1963 và cả hai lần đều bị từ chối. Thế nhưng sau đó Huệ Nhật đã
được giới tu sĩ Phật Giáo và Phật tử coi như một vị "thánh sống".
Sau đó Huệ Nhật laị bay về Quảng Trị và tình nguyện tự thiêu tại Huế,
tháng 10-1963 và cũng bị từ chối (Trang 246-254). Đâu là sự thật về
"lịch sử tự thiêu" của Huệ Nhật?
Về mặt nguyên tắc: Trong năm 1963,
đã có 7 tu sĩ Phật giáo tự thiêu, gồm 2 Hoà Thượng và 5 Đại đức
(tuyệt nhiên không có một vì nào thấp hơn hàng đại đức hay ở lứa tuổi
mới qua khỏi vị thành niên hoặc còn ở hàng sa-di như Huệ Nhật cả). Tự
thiêu đối với Phật giáo là một sư hiến dâng nhục thể để cúng dường
tam bảo, vì vậy hình thức cung hiến nầy mang một ý nghĩa rất thiêng
liêng và cao cả. Huệ Nhật thuở đó mới 18 tuổi đời, vào ở chùa 4 năm,
nếu chịu tu hành nghiêm túc cũng chỉ mới lên được hàng sa-di, nghĩa là
một chú tiểu ở chùa, chưa được đứng vào hàng ngũ tham gia những sinh
hoạt bên ngoài của giáo hội. Thế mà anh tự "phong thánh" cho
mình với những sự việc bịa đặt có vẻ như đã được giáo hội chấp
thuận trên nguyên tắc để đứng vào hàng "tu sĩ chuẩn bị tự thiêu".
Về mặt sự kiện: Tại Huế, có
hai cuộc tự thiêu. Vụ đầu tiên là Hòa Thượng Thích Tiêu Diêu ngày
26-6-1963 và vụ thứ hai là Đại đức Thích Thanh Tuệ ngày 15-8-1963. Thời
đó danh sách các tu sĩ tình nguyện lên tới 36 vị, nhưng giáo hội đã chấm
dứt việc tự thiêu vào tháng 8-1963. Trong lúc đó Huệ Nhật lại xin tự
thiêu vào tháng 10-1963. Oái oăm hơn nữa là địa điểm dự trù là Khách Sạn
Thuận Hóa, trong lúc Khách Sạn Thuận Hóa lại nằm ẩn kín sau Morin, ít
khi có bóng người lai vãng.
Tôi chỉ trình bày sự kiện, còn kết
luận thì xin để dành cho bạn đọc.
Chính Huệ Nhật đã trả lời ngay
trong tập sách của anh ta: "Khi còn nhỏ, anh mơ ước đi tìm chân lý
như thái tử Tất Đạt Đa. Cạo đầu cầu đạo đi tu. Đang học đạo anh
tình nguyện tự thiêu chống bất công tôn giáo ở miền Nam, vì lúc ấy
anh tin rằng đó là cách tìm gặp chân lý mau nhất, nhưng suýt nữa mà anh
bị Việt Cộng lợi dụng tổ chức cho cái chết của anh dưới danh nghĩa
hy sinh cho Đạo Pháp" (Trang 73&74).
Huệ Nhật lại phạm thêm một lỗi
lầm nghiêm trọng nữa là chụp mủ phong trào tranh đấu Phật giáo và các
tăng ni tự thiêu là "Việt Cộng tổ chức cho cái chết...".
Huệ Nhật lại lún sâu và sự suy diễn ngô nghê của anh bằng những chuyện
"thiên hạ đồn rằng" không có một căn cứ nào để kiểm chứng.
Như trường hợp anh minh họa thêm rằng một trong những nhà sư cầm đầu
phong trào Phật giáo đòi quyền bình đẳng tôn giáo ở Huế là thượng tọa
Trí Quang đích thị là cộng sản: "Ông Thiệu tạo thêm sự phân rẽ
vốn đã sâu sắc trong hàng ngũ Phật Giáo bằng sắc luật 23/67 để đánh
gục con sư tử tôn giáo chuyên môn tự thiêu tuyệt thực chống các chính
quyền miền Nam một cách quá trớn. Hồi đó nếu ai nói rằng có bàn tay cộng
sản đạo diễn trong hàng ngũ Phật Giáo thì bị nhiều người chống đối.
Thế nhưng sau 30-4-1975, anh mới biết hòa thượng Trí Quang đã làm việc
theo Việt cộng tới cỡ nào." (Trang 108).
So với những "chuyên gia chụp
nón cối" khác thì Huệ Nhật bị lạc hậu gần hai thập niên. Chụp mũ
là một hiện tượng tiêu cực và bế tắc hàng đầu của tri thức. Đó
là sự lười biếng của lý luận và hiện tượng cùn nhụt của trí óc
vì khi dùng con bài triệt "thân cộng" chận đường đối thoại rồi
thì chẳng còn gì để nói ngoài tiếng vo ve của định kiến và hí lộng
của hận thù.
Sau khi dùng một loai ngôn từ và
lý luận mạt hạng nhất để nói đến các lọai chuột bẩn thỉu nhất,
Huệ Nhật lại viết: "Có hai con chuột áo vàng nằm trong Mặt Trận
GPMN là là hai hòa thượng đỏ Thích Thiện Hào và Thích Minh Nguyệt. Sau nầy
người ta hai vị đại lão hòa thượng nầy là đảng viên đảng Cộng Sản
Việt Nam. Họ có con, dâu, rể đùm đống đầy đàn... Cộng sản đã mặc
áo cà sa cho đảng viên lên lãnh đạo tôn giáo." (Trang 109) Dù hư
thật không rõ nhưng đây không phải là Phật giáo, mà đây hiện tượng cá
nhân giống hệt như trường hợp Huệ Nhật bỏ tu ra đời lấy nhiều vợ.
Tôn giáo nào cũng có trường hợp ngoại lệ tương tự. Hành động lấy
ngoại lệ để làm điển hình nhằm bôi bác Phật giáo là một tiểu xảo
bất lương của Huệ Nhật, nên tránh để đủ lớn làm người.
Lần thứ ba vào cuối năm 1964, tại
Nha Trang Huệ Nhật lại xin tự thiêu, đã không được ai coi ra gì lại bị
mang một tên mới là "Thánh Chuối" vì bị người dân thường và
giới tu sĩ coi như một tên vô lại. Vì vậy, như Huệ Nhật đã ghi lại:
"Khi nhìn biết một sự ganh ghét xấu xa, những hành vi gỉa hình của
người tu sĩ thuộc bậc anh, bậc thầy của mình, anh có cảm giác gớm ghiếc,
khinh bạc và nghĩ đến cái chết để được giải thoát. Anh cảm thấy cần
một cái chết để giải quyết những hậu quả phiền toái về sự sống
sót của anh." (Trang 258). Những trang tiếp theo, Huệ Nhật đã dùng
đến những lời lẽ thô thiển theo kiểu của anh để thóa mạ hầu hết
hàng hòa thượng, thượng tọa lãnh đạo cao cấp của Phật giáo còn tại
thế hay đã viên tịch. (Xin xem từ trang 246 đến 273)
2. HUỆ NHẬT ĐÃ
"XÙ PHẬT" NHƯ THẾ NÀO?
"Xù Phật", chỉ là một lối
nói đầy dung tục của Huệ Nhật để chỉ hành động tu xuất của anh.
Thật ra thì Huệ Nhật chưa đủ "nội lực" để biện minh và bảo
vệ cho chính bản thân mình nên tới đâu cũng bị người đời đánh đập
và ruồng bỏ như anh đã tự ý trình làng: Thầy đánh, bạn đánh, cháu chắt
đánh, vợ đánh, người Việt tỵ nạn ở Đức đánh (Trang 74, 81, 130, 148,
251, 269...). Thế nhưng anh vẫn cố cãi chày cãi cối để biện minh cho hành
động "xù Phật" đã hằn sâu mặc cảm xấu xa trong lòng anh. Phương
pháp "biện giải" của Huệ Nhật là lối dùng hình thức so sánh
và tương phản (contrast) trong luận lý học cổ điển. Anh đã dùng tiền
đề phủ định để cố gắng phủ một lớp sơn u ám phát ra từ trong
trí anh vào Phật giáo để cố giải thích vì sao anh quay lưng với đạo Phật.
Để giải thích cho hành động bỏ
đạo Phật theo đạo Chúa của mình, Huệ nhật tự so sánh mình cũng giống
như đức Phật Thích Ca và đức chúa Giê-Su: "Khi em nói tới chữ lừa
thầy phản đạo là đã bày tỏ một tinh thần hẹp hòi, nông cạn, không
hiểu gì về ý nghĩa của đạo. Anh phải nhắc lại một lần nữa là
chính Đức Thích Ca cũng đã mang tiếng lừa thầy phản đạo sau khi rời bỏ
con đường tu khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác Đà...
Một trong những lý do mà nhóm thầy tu Biệt Phái (Pha-ri-si) kết án chúa
Jesus để đónh đinh Ngài cũng là vì họ cho rằng Chúa Jesus đã hủy bỏ
truyền thống có sẵn trong đaọ Do Thái (phản đạo)!" (Trang 289). Sự
so sánh khập khiểng của Huệ Nhật là một thái độ gàn bướng của kẻ
cho rằng "Thánh nhân cũng như Thằng Cuội. Đều có cái đầu mà chẳng
có cái đuôi!" Phật bỏ năm anh em Kiều Trần Như để tìm chánh pháp
và khi tìm được rồi thì trở về hóa độ cho họ. Chúa không chấp nhận
giáo luật Moses của Do Thái giáo để tìm đường cứu chuộc trong sự mặc
khải của Thượng Đế: Đó là hành động của những bậc đại trí, đại
dũng. Huệ Nhật không hiểu nổi Phật giáo lại bày ra trò "xù Phật"
và nói xấu Phật giáo: Đó là hành động của kẻ đại cuồng, đại phản.
Đem so sánh sự cứu nhân độ thế của bậc thánh nhân với hành động
ích kỷ tự cứu mình của kẻ phàm phu là một sự xúc phạm sự tôn
nghiêm cần thiết của một tinh thần lành mạnh khi bàn về tôn giáo. Huệ
Nhật tuyệt nhiên không có tinh thần lành mạnh đó trong suốt tập sách hỗn
độn của anh.
Rõ ràng là Huệ Nhật muốn xây dựng
luận điểm rằng anh bỏ đạo Phật qua đạo Chúa vì đạo Phật không phải
là chánh đạo: "Đối với những bậc thầy của Ngài như năm anh em
Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác Đà... Ngài cũng lìa bỏ khi nhận ra rằng những
người nầy không dạy cho mình chánh đạo." (Trang 288) Nhưng không
rõ vì không thuộc bài hay quẩn trí vì cố biện minh cho cái tôi đã quá tả
tơi của mình, anh "phang" luôn cả đạo Chúa: "Anh tin Chúa
trong hoàn cảnh bị CS khủng bố, chứ không phải tin Chúa để kiếm mùng
mền cơm gạo như nhiều người Việt Nam trong Chiến Tranh. Những người Việt
Nam đã theo Chúa vì muốn có hàng viện trơ của Mỹ ngày xưa chẳng có phước
hạnh gì hơn." (Trang 289).
Huệ Nhật đã lửng lơ mô tả
hàng ngũ tu sĩ Phật Giáo cũng toàn là gống "độn căn" như anh khi
còn ở chùa, rằng: "Cũng có những người ăn cơm chùa từ khi còn rất
nhỏ, nhưng trí óc thuộc loại độn căn; học thêm một chữ là đã quên
đi hai chữ, vì thế khi lớn lên chỉ ở trong chùa, dù rất muốn ra đời
cũng không dám ra. Ngày nay những người ấy trở thành những bậc sa môn.
Chễm chệ làm ông thầy. Chỉ ngồi niệm hai chữ Nam Mô là cả vạn người
nghe theo dâng đầy tiền của. Tu lâu phải thành sư cụ. Anh bước ra khỏi
chùa để sống thật với con người mình hơn." (Trang 288)
Huệ Nhật phản bác" giáo lý
nhà Phật một cách hơi bất thường vì sự đơn giản và nông cạn như là:
"Phật giáo rất rộng nên đúng và sai không có biên giới. Có khi bỏ
Phật mà lại đúng hơn là cứ đường đường theo đạo Phật một cách hữu
sắc vô hương. Phật Giáo là một tôn giáo có nhiều giáo lý mênh mông
bát ngát đến nỗi người đi theo có khi đã đi lạc đường gần hết một
đời mà vẫn không biết. Nhưng đức tin đi trong Chúa là đi trong Đường
Hẹp, bước ra khỏi Kinh Thánh là thấy lạc đường ngay. Ngày nay có một
số giáo hội vẫn thờ Chúa, nhưng không làm theo kinh Thánh. Nhiều tín đồ
của họ không hiểu gì về Đấng mà họ thờ cả." (Trang 171) Huệ
Nhật đã quên người xưa từng dạy: "Biển rộng mặc biển, thuyền
chèo có ngăn". Không lẽ biển phải mang tiếng phụ bạc thuyền con chỉ
vì biển quá rộng; hay Phật giáo sai chỉ vì lý thuyết đạo Phật quá
mênh mông mà Huệ Nhật không đủ sức để lãnh hội?
Và Huệ Nhật đã lái (hay dựng đứng)
chuyện bôi bác riêng tư của gia đình anh thành chuyện ô uế trong giới tu
sĩ Phật Giáo: "Nghiệm thấy con đường đi tu không dễ gì tìm ra
chân lý, anh cởi áo tu để mặc lại chiếc áo người phàm., chiếc quần
người trần tục. Một năm sau khi cởi áo thôi tu. anh lập gia đình, nhưng
bị một người bạn đang làm đại đức đến nhà ngủ ké với vợ
mình." (Trang 74)
Huệ Nhật cũng liều lĩnh đưa ra một
con số tưởng tượng mà anh ta tưởng là sẽ không còn ai kiểm chứng được:
"Vì yêu các vị tu sĩ Phật Giáo mà anh rất lấy làm đau xót và tức
giận khi được đọc hồ sơ của 240 vị sĩ quan tuyên úy Phật Giáo trong
quân lực VNCH. Trong 240 vị đã có trên 225 vị bị lính viết thư tố cáo
lên nha tuyên úy Phật giáo về việc thầy thích ăn chơi, cò hầu hết đều
có dính vào những chuyện phù phiếm tào lao điên khùng khác." (Trang
209) Trong trường hợp nào và với tư cách gì mà Huệ Nhật lại đọc
được toàn bộ hồ sơ mật của Nha Tuyên Úy Phật giáo?!
Nói tóm lại là Huệ Nhật đã chủ
quan đánh giá người đọc quá thấp nên lẩn thẩn tung hỏa mù, dựng chuyện
mà người đọc không có cơ sở kiểm chứng để bôi bác các nhà tu và Phật
Giáo bất cứ lúc nào và chỗ nào có thể chen vào được để biện minh
cho mặc cảm nặng nề về hành vi lừa thầy phản đạo (chữ của chính
Huệ Nhật) của anh.
3. HUỆ NHẬT ĐÃ
VIẾT VÀ LÁCH NHƯ THẾ NÀO?
Trong một tập sách giới hạn,
Huệ Nhật đã cố gắng "bao sân". Anh viết nào là Phật giáo,
Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Trời, Phật, Chúa đến mọi khía cạnh khác như
chính trị, quân sự, kinh tế, hoà bình, chiến tranh, quốc gia, cộng sản,
tiền, tình, yêu, ghét, thơ, phú... đủ thứ! Huệ Nhật đã vận dụng được
một mớ kiến thức hỗn hợp nhiều món. Một mớ kiến thức không phải
lĩnh hội từ sự tham khảo, học hỏi, nghiên cứu có phương pháp hay từ
sự suy tư nghiêm chỉnh mà chỉ là những mẩu chuyện vặt vảnh như lời
"thiên hạ đồn rằng" hay qua những "mẩu chuyện quanh bàn nhậu".
Và cũng vì thiếu một căn bản học
hỏi nghiêm túc như vậy nên Huệ Nhật không phân biệt được giữa sự
kiện và tin đồn; giữa diễn dịch và thực tế. Vì vậy, anh đã lẫn lộn
từ đầu chí cuối giữa thực chất và huyền thọai khi viết về tôn
giáo; bối rối giữa quan điểm chủ quan và luận chứng khách quan khi lạm
bàn đến chính trị và xã hội; hấp tấp nhìn sai lạc giữa điều anh muốn
mà không xảy ra và điều đã xảy ra ngòai ý muốn của anh.
Người đọc có cảm tưởng là Huệ
Nhật sống trong thế giới bị bưng bít ở quê nhà, thiếu thông tin về thế
giới bên ngoài, nên anh đã đánh giá trình độ của người Việt ở Hải
Ngoại quá thấp. Cái nhìn phiến diện nầy đã dẫn anh tới tình trạng chủ
quan và tùy tiện nên anh mới có can đảm diễn thuyết vung vít, tha hồ
múa gậy vườn hoang mà bất cần thiên hạ đến như thế.
Huệ Nhật lại càng tỏ ra quá hời
hợt, không chịu tham khảo những dữ kiện lịch sử khi quay đầu nhìn lại
dòng lịch sử cận đại. Vì vậy mà rất nhiều chỗ trong tập sách của
anh, Huệ Nhật đã nói về những nhân vật chính trị, quân đội miền Nam
một cách thiếu thận trọng. Chẳng hạn như khi nói về tổng thống Ngô
Đình Diệm, anh viết:
"Không phải nhà truyền giáo
nào cũng theo đế quốc như người ta nghĩ, cũng như tất cả những người
Phật Tử đều theo Việt Cộng như gia đình tổng thống Ngô Đình Diệm
nghĩ. Những nghi ngờ thiển cận ấy đã vô tình tạo ra nhiều tai họa
phân rẽ trong dân tộc chúng ta..." (trang 28)
Hoặc là: "Tổng thống Diệm
đã đầu tư vào sự tiêu diệt những người chống cộng như Phật giáo
Hoà Hảo, và Hội Phật Học VN thay vì xây dựng tình đoàn kết với các
tôn giáo ấy... Tổng thống Diệm chỉ bao thầu ý thức chống cộng trong
hàng ngũ Công gíao thiểu số của miền Nam, và dựa vào số người Công
giáo di cư chống cộng. Đó là sự thiển cận tai hại mà chúng ta phải học
để tránh." (Trang 106)
Khi nói về Tin Lành là đạo mà
Huệ Nhật mới theo sau này thì anh cũng gây nỗi hoang mang không biết đâu
chân giả trong đạo nầy chỉ vì giận cô vợ bạc tình. Huệ Nhật lý sự
nghe thú vị như chuyện phòng the:
"Cộng Sản đã phá tan tình chồng
nghĩa vợ của gia đình anh, chúng xúi bà vợ "tài ba" của anh ăn cắp
đứa con trốn ra nước ngoài làm công tác kiều vận trong giới Tin Lành.
Bà ta trở nên một nhà giảng đạo thành công đến nỗi đã dạy cho con
anh coi cha nó như một thằng khốn nạn." (Trang 75) Đến đây, Huệ
Nhật lại một lần nữa tạo nên sự thắc mắc về sự liên hệ giữa
nhân cách của anh và việc giảng đạo của vợ anh. Những nhân vật khốn
nạn trong tôn giáo là những thành phần bội phản. Đừng nghi cho ai cả mà
hãy tự mình soát xét lại chính mình.
Các mục sư Tin Lành không đáp
ứng yêu cầu của Huệ Nhật thì anh cho rằng "...Vì họ đã bị
bà ta chinh phục!"(Trang 236).
Sau đó Huệ Nhật lập đi lập lại
nhiều lần về đức tin của mình đối với Thiên Chúa, quyết theo Chúa để
tìm sự sống đời đời. Tiếp đến anh trình bày với người em về
"đức tin" của mình đối với tiền. Anh viết: "Trong
tình anh em, anh có thể nói rằng tôn giáo nào cũng có tiền và cũng có
kinh doanh cả. Tôn giáo là một môi trường "kinh doanh" béo bở.
Riêng tiền dâng hiến của hàng tỷ tín đồ cũng đã nhiều lắm rồi. ...
Đối với anh, nghèo cũng là một sự phước hạnh, mặc dầu anh vẫn muốn
mình giàu." (Trang 25)
Nhiều bạn đọc đã phát biểu
là họ cảm thấy "ngượng" khi Huệ Nhật hò hét về "tình
yêu Thiên Chúa" đã mặc khải trong anh. Bằng một lối diễn đạt văn
chương phi nghệ thuật, Huệ Nhật đã làm cho hình tượng vốn thiêng
liêng và cao cả của Chúa trở thành dung tục, tầm thường như một dụng
cụ trong bàn tay vụng về và trong tâm hồn "rỗng" màkhông "lặng"
của anh. Đúng như lời của thánh Thomas trong Đấng Tối Cao (The Oneness): "Sự
tôn xưng đấng Thiêng Liêng bằng sự ồn ào, vội vàng, thô thiển và vô
hồn là một cách nói khác của sự mạ lỵ đối với Người".
Trong Phân tâm học tôn giáo và
chính trị, khi phân tích về tâm lý bất bình thường của những người bị
lâm vào cảnh "mất chân đứng", nhà tâm lý học thời danh Erik
Erikson, đã dùng một thuật ngữ là "Sham Enlightenment", xin tạm dịch
là "Trá Ngộ" (phản nghĩa với Giác Ngộ). Theo Erikson, thì
"Trá Ngộ" là sự biểu hiện một cách giả dối đầy kich tính của
một kẻ man trá, làm trò xiếc để lấy lòng đối tượng mà anh ta chủ
tâm lợi dụng. Thí dụ như trường hợp của một gã làm ra vẻ yêu
đương da diết một người đàn bà mà anh ta chẳng thực lòng yêu thương,
nhằm mục đích lợi dụng tống tiền và tống tình nạn nhân đáng thương
đó; hoặc một người làm như hết mình tin kính và tuân phục tuyệt đối
một ông vua, một lãnh tụ hay một vị giáo chủ... để có cơ hội tiến
thân, thủ lợi trong vùng ảnh hưởng của nhân vật lãnh đạo nầy; hoặc
đứng về phía nầy để lớn lối đả kích chống báng phía kia nhằm lấy
lòng quần chúng xung quanh mình, đang ở thế đối lập với phía bên kia. Sự
biểu hiện rất dễ quan sát của khuynh hướng "trá ngộ" nầy,
theo Erikson, là sự thay đổi lập trường, đức tin, ngôn ngữ, phong
cách... một cách đột ngột song song với lời lẽ, ngôn ngữ nói ra đầy
vẻ tha thiết, nhiệt tình hay năng nỗ một cách bất thường... ( Sham
Truth., Norton, NY. 1968)
Đọc tập sách của Huệ Nhật,
theo dõi những "chiêu thức" của anh nói về Chúa và nói về Cộng
sản, tôi bỗng cảm thấy phân vân không biết có bao nhiêu phần trăm Trá
Ngộ và bao nhiêu phần trăm Giác Ngộ trong tận cùng ý thức của anh hay tất
cả chỉ là một trò Trá Ngộ đen tối để mong kiếm một chỗ dung thân
theo con đường "tỵ nạn"!
Nói về Cộng Sản, anh có thể
dùng lời lẽ dao to búa lớn hay dùng bàn tay sắt bọc nhung. Nhưng nói về
Chúa, về Phật thì xin hãy nói bằng cái đầu lương thiện và cái bụng
chân thành. Sự hồ đồ và tiểu xảo của Huệ Nhật chắc chắn sẽ còn
kéo dài và rất có khả năng đánh lừa được một số người cả tin vào
những chuyện bịa đặt và những lý luận viễn mơ của Huệ Nhật. Sự bất
lương tri thức của Huệ Nhật sẽ gây tác hại không nhỏ cho tinh thần học
hỏi và sự đoàn kết giữa đạo Phật và đạo Chúa trong cộng đồng
người Việt tại Hải Ngoại. Nhất là khi Huệ Nhật xảo quyệt khai thác
triệt để tinh thần chống Cộng của quần chúng để mưu lợi cá nhân.
Khi thẳng thắn nhận diện và phân
tích một nhân vật đòn phép, đầy trá ngụy từ trong ra tới ngài nước
như Huệ Nhật, tôi hoàn toàn không có sự liên hệ hay tình cảm thương ghét
gì với anh cả. Tôi chỉ muốn được làm một người tình nguyện quét
lá sân chùa (và nếu cần cũng xin được quét lá sân nhà thờ) để làm
cho những ý hướng về tôn giáo được nghiêm trang và trong sáng hơn.
"Văn tức là người", tôi tiên liệu và chấp nhận một thái độ
phản ứng từ phía Huệ Nhật cũng sẽ đầy dẫy những điều tồi tệ và
bôi bác như chính văn phong, con người và tư cách của anh đã do anh kể ra
trong sách anh viết.
Thời tiểu học, tôi theo học trường
"Đạo". Đó là trường Phan Thiện ở Dương Sơn. Tôi đã làm quen
với khung cảnh nhà thờ có tiếng chuông đổ dồn mỗi sớm, mỗi chiều từ
tháp chuông cao vút. Làm sao tôi quên được Cha Huỳnh trong bộ áo chùng
đen; Chị Hường, Chị Ngôn trong chiếc mũ cuốn và bộ áo dòng tu màu trắng
trinh tuyền. Tuổi thơ nghe đến danh xưng của Chúa, của Trời thật êm đềm
và dịu ngọt. Khi lớn lên, suốt 5 năm học ở Văn khoa và Sư phạm, tôi lại
được học với các linh mục. Từ cha Thích đến cha Phương, cha Huynh, cha
Lan, cha Nhã... mỗi cha có một cách nói riêng, nhưng khái niệm về Chúa, về
Thượng Đế, về đức tin và sự cứu rỗi của Thiên Chúa giáo do các Chị,
các Cha thuở đó nói ra sao mà gần gũi, ấm áp và thân tình đến thế.
Trường "Đạo" đã làm phong phú tâm hồn và trí óc của tôi bên
cạnh "vốn liếng" về Phật giáo đã un đúc từ thuở nhỏ. Hiện
tại, tôi là giáo sư thỉnh giảng của PLU (Pacific Lutheran University) của
Tin Lành. Tôi đã quen sống và suy nghĩ không hề có sự kỳ thị tôn giáo.
Phải chăng vì thế mà khi đọc Huệ Nhật viết về Phật, về Chúa tôi lại
không thể thản nhiên và cảm thấy như cả Chúa và Phật đều bị xúc phạm
qua cách diễn đạt về yếu tính của tôn giáo và hình tượng của các đấng
thiêng liêng vừa vụng, vừa thô, vừa gượng gạo của anh. Người đọc dù
dễ tính đến đâu cũng cảm thấy được Huệ Nhật viết với một mảnh
linh hồn thiếu chơn chất (tôi tránh dùng từ ba xạo). Anh ta như một kẻ
bước đi trong cánh rừng (tư tưởng tôn giáo và triết học), lẩn quẩn
vì những hệ lụy nhân sinh chồng chất không tìm được lối ra. Bị lạc
đường, Huệ Nhật laị cho là "rừng lạc" chứ không phải mình lạc.
Sở dĩ Huệ Nhật bị lạc đường là vì anh cứ loay hay đi tìm nhặt những
cọng rác và những cành khô tầm thường đã bị thời gian hủy hoại
trong cánh rừng thâm u và xanh thẳm mênh mông. Anh đã đi qua nhưng lạc mất
lối về. Rồi anh ngồi lên trên đống rác để kêu gào rằng: "Than
ôi! sao cánh rừng chỉ là một đống rác thế nầy!" Huệ Nhật
mãi mê nói về con sâu trong nồi canh mà cứ ngỡ là đang nói về nồi
canh; cũng như anh đã miệt mài nói về vài ba hiện tượng "xì căng
đan" thường tình trong tôn giáo, lại tưởng lầm là đang nói về đạo
Phật hay đạo Chúa.
Vừa thoát ra khỏi chiếc cũi sắt
của guồng máy kiểm duyệt quá khắt khe, Huệ Nhật tung mình "phát huy
quyền tự do" cho thỏa thích. Dù những điều Huệ Nhật sơn phết hay
rao bán không trúng trật vào đâu thì cũng là chuyện đời thường. Tuy nhiên,
hiện tượng mấy bác trong Hội Thơ Tà Tử Việt Nam Hải Ngoại tại
Sacramento, thủ phủ xứ California đã gây ra một ấn tượng không thật, nhất
làđã tạo cho Huệ Nhật một ảo tưởng "nổi tiếng" trong thị
trường văn chương chữ nghĩa tiếng Việt chợ chiều ở Mỹ. Thế thì quả
thật quý bác thi sĩ đã "Yêu nhau như rứa, bằng mười phụ nhau!"
rồi đó.
Trong tinh thần văn nghệ và thân hữu,
tôi muốn được thưa với bác Chủ Tịch Hội Thơ Tài Tử Như Hoa Lê Quang
Sinh một đôi điều rất nhỏ.
4. VAI TRÒ CỦA
NHÀ THƠ LÊ QUANG SINH
Như ở phần trên tôi đã có dịp
trình bày, anh Lê Quang Sinh trên danh nghĩa đương kim chủ tịch Hội Thơ Tài
Tử Việt Nam Hải Ngoại, có "bản doanh" đóng tại Sacramento đã đứng
ra đảm nhiệm việc bảo trợ, giới thiệu, quảng cáo, và phát hành rộng
rãi tập sách "Từ Áo Cà Sa đến Thập Tự Giá" của Nguyễn Huệ Nhật.
Vì nhận thấy nội dung của tập
sách nầy là một hành động thiếu ngay thẳng nhằm bôi bác, triệt hạ uy
tín và danh dự của Phật Giáo nói riêng và nhận định sai lạc về các
tôn giáo khác cũng như các nhân vật lịch sử nói chung với khả năng và
kỹ thuật hết sức vụng về và thô thiển, tôi cũng đã hai ba lần trực
tiếp trình bày với anh Lê Quang Sinh về ảnh hưởng tác hại của nó trong
tập thể người Việt. Tôi cũng đã nhấn mạnh với anh Sinh rằng, anh ở
trong một vị thế rất tế nhị là trưởng một hội thơ được nhiều
người biết đến, đặc biệt là đồng hương Việt Nam và anh chị em
trong giới văn bút đã dành quá nhiều vinh dự, có khi còn vượt quá cả
tài năng và thực lực của anh. Hơn thế nữa, anh Lê Quang Sinh là một tín
đồ Thiên Chúa Giáo, nên việc anh đứng ra cổ xúy và phát hành một tập
sách bôi bác Phật Giáo như thế sẽ vô hình chung rất dễ gây ra sự ngộ
nhận rằng, anh đang làm kẻ nối giáo cho sự gây hận thù và chia rẽ tôn
giáo. Tuy nhiên, anh Lê Quang Sinh chẳng những đã không để ý đến sự góp
ý của những bạn bè xung quanh mà càng ngày anh càng hăng hái hơn, năng nỗ
hơn trong việc quảng bá cho tập sách chống báng Phật Giáo nầy. Anh đã
xuôi ngược bán hết cả nghìn cuốn trong đợt in lần thứ nhất và đã
đổi bìa in lại lần thứ hai và càng tỏ ra hăng say hơn nữa trong việc
đem tập sách nầy đi rao bán khắp nơi. Anh Sinh cũng đã gõ tất cả cửa
nào có thể gõ được để xin anh chị em cầm bút viết bài giới thiệu
quảng cáo cho tập sách của Huệ Nhật để đem in lên báo chí.
Lần đầu, để biện minh cho việc
làm của mình, anh Lê Quang Sinh đã đem chiêu bài "quốc gia chống cộng"
để gán cho tập sách. Lần đó tôi đã phân tích và thảo luận khá nhiệt
tình và cặn kẽ với anh Sinh về sự mù mờ trong hành tung cũng như thực
chất tinh thần "la hét chống cộng một cách bất thường" của
Nguyễn Huệ Nhật trong sách. Xin được tóm tắt những điều liên quan đến
Huệ Nhật và cái gọi là "tinh thần quốc gia" của anh Sinh gán cho
Huệ Nhật mà tôi đã chân tình trao đổi với anh Sinh như sau:
"Trước năm
1975, đối lập với chế độ Sàigòn, chống Mỹ chống chế độ, đã theo
Việt Cộng, theo phản chiến. Sau 75 ăn ở, ngủ ngáy lập gia đình vời Việt
Cộng rồi sinh con đẻ cái, chắc bây giờ sau 20 năm nằm chung chăn giờ mới
phát hiện có "rận". Quân đội Sàigòn trước 75 anh cho họ là một
lũ đánh thuê bây giờ lại giở giọng "Bán máu dân lành cho Mốt
Cu" (Trang 103) - Huệ Nhật đã để ra từ trang 103 đến trang 144 để
trả lời cho người em tên Thúc và cũng là nhằm để biện minh cho mình.
Tuy vậy, dù tôi đã ráng đọc kỹ nhiều lần, nhưng những lý luận nhằm
để "gải cứu" cho anh vẫn không có một mảy may sức thuyết phục
đối với ai cả.
Câu hỏi thứ hai: Cũng theo tác giả
tự kể lại là ngay sau khi VC vừa chiếm Sàigòn, Huệ Nhật đã tự ý đứng
ra bảo lãnh cho 1500 người hồi hương. Nhưng sau đó VC cho anh ta là CIA nên
bỏ tù (?!) Ngay sau khi ra tù, Huệ Nhật lại cưới một cô "đặc công
trinh sát VC" làm vơ.Xin nhớ: Cô đặc công trinh sát VC chứ không phải
cô bán vé số ngài chợ). Về điểm này người đơn giản nhất cũng sẽ
có cả hàng bao nhiêu câu hỏi là sự giải thích và sắp đặt sự kiện của
Huệ Nhật quá ấu trĩ và thậm chí khôi hài để chứng minh cho tinh thần
"quốc gia" của anh ta.
Câu hỏi thứ ba: Có ai là cựu
tù CS mà lại đuợc tự do xuất bản sách liên tục tại Sàigòn như Huệ
Nhật không? Theo phần liệt kê ghi sau bià Huệ Nhật đã xuất bản 6 cuốn
sách về thơ văn tại Sàigòn trước khi qua Đức. Huệ Nhật ghi là phải
đạp xích lô để kiếm sống mà lại có tiền tới 4, 5 nghìn đô la gửi
qua cho vợ con ở Mỹ (Trang bìa sau và trang 233)
Câu hỏi thứ tư: Phải chăng viết
sách bôi bác tôn giáo như Nguyễn Huệ Nhật và việc tiếp tay phổ biến
những "Tá(t) phẩm" gây hận thù và chia rẽ tôn giáo như anh Lê
Quang Sinh cũng là một cách thể hiện lập trường "quốc gia chống cộng"?
Khi nêu lên những câu hỏi nầy
tôi hoàn toàn không có ý và cũng không có lý do chụp mũ – vốn là điều
mà tôi rất có dị ứng và luôn luôn mạnh mẽ lên án– hay xếp loại Huệ
Nhật là tả, là hữu hay là gì đó... mà tựu trung tôi chỉ muốn nói với
anh Sinh một điều là "Đừng vội cho những gì trông có vẻ lóng lánh
đều là vàng". Cũng vậy, khoan dễ dãi cho rằng Huệ Nhật là một người
có lập trường quốc gia chống cộng để lờ đi cái đinh then chốt của
vấn đề: Đó là trò ma mãnh đã quá lỗi thời và tác tệ đối với người
Việt tỵ nạn. Không còn ai lạ gì trò nói huơu nói vượn kiểu Huệ Nhật
để kiếm điểm, lấy lòng các cơ quan tôn giáo khác đang có chương trình
đứng ra bảo lãnh một số di dân vào đất Mỹ.
Trước luồng dư luận xôn xao của
quần chúng trong năm qua, là một người trong giới gần gũi với sách báo
(và cũng là người từng quý mến và trân trọng viết lời giới thiệu
cho tập thơ đầu tay của anh Như Hoa Lê Quang Sinh), dù không đồng y với
anh nhưng tôi vẫn cố gắng đặt vấn đề một
cách khách quan với hy vọng làm sáng tỏ một phần nào cho việc làm của
anh Sinh trước quần chúng, nhất là với các vị tôi thường gặp ở chùa.
Khi nói về "động cơ nào đã thúc đẩy anh Sinh năng nỗ hình thành
và phổ biến một cách nhiệt tình tập sách đầy tính tiêu cực và chia rẽ
của Huệ Nhật như vậy?", tôi đã nêu lên câu hỏi và cách lý giải
mà tôi cho là tương đối hợp lý nhất với anh Sinh. Xin được tóm tắt
như sau:
- Vì tình văn nghệ chăng? Có lý
nào! Thử đọc một đoạn thơ "tức cảnh" của Huệ Nhật đăng
ở trang 277, trong sách của anh:
- Tôi làm nghề đạp xích lô
- Đón người lỡ bước đón cô bạn hàng
- Chở anh ngồi sát bên nàng
- Chở bà bụng nghén giữa đàng kêu đau
- Đi quanh ngõ trước đường sau
- Đất bằng tôi đạp, dốc cầu đẩy lên...
Thi nhân ơi! Thơ thẩn mà đến
nước nầy thì cho dù "Cụm Hoa Tình Yêu" của anh Lê Quang Sinh cũng
không dám đăng chứ nói gì đến văn gừng văn nghệ. Đọc thơ của Huệ
Nhật, người ta chợt nghĩ đến tấm hình chụp chung của anh và Bùi Giáng
đăng ở bìa sách của anh, rồi tự hỏi không biết Huệ Nhật đã
"lây" cái điên của Bùi Giáng hay "lan" hồn thơ thiên cổ
của thi nhân tài hoa mà kỳ dị ấy?!
- Vì danh chăng? Chắc chắn là
không! Bởi lẽ đã hơn một lần, tôi có trình bày thẳng thắn với anh
Sinh rằng, anh càng dính vào tập sách này chừng nào là danh dự anh càng bị
thương tổn chừng đó cụ thể là quần
chúng Phật Tử và những người lương thiện khắp nơi đang phẫn nộ.
Người ta phẫn nộ không phải vì mớ chữ nghĩa hỗn tạp của một gã
vô danh đang nằm trong trại xuất khẩu lao động của chế độ Hà Nội tận
bên Đức như Huệ Nhật, mà sự phẫn nộ đang dồn cả vào anh Lê Quang
Sinh vì anh đã cho in ấn, phát hành, và quảng cáo tập sách đó. Thậm
chí, tôi đã thuật lại cho anh Sinh nghe nguyên văn những lời mắng nhiếc
đầy xúc phạm của các Phật Tử ở nhiều chùa khác nhau đối với kẻ bảo
trợ cho tập sách. Tôi đã gặp những người quan tâm đến vấn đề này
từ trong vùng như : Các chùa Diệu Quang, Kim Quang, Viên Chiếu, Kim Sơn, Pháp
Duyên, Quang Nghiêm... khi họ biết anh Sinh là người bảo trợ việc in ấn
và phát hành tập sách Từ Áo Cà Sa đến Thập Tự Giá của Huệ Nhật.
- Vì lợi chăng? Dù ai cũng biết rằng
bán ra một đợt in sách cũng có thể kiếm được tiền lời trên chục
nghìn đô la, nhưng với tuổi tác và vị thế của anh Lê Quang Sinh thì
chút vật chất phù phiếm làm sao đổi được thanh danh to lớn của anh, nên
chẳng có ai tin rằng anh Sinh lại "hy sinh" cái danh lớn cho cái lợi
nhỏ cả. Hơn thế nữa, sách hay hoặc sách dở thì cũng là sản phẩm tinh
thần và tim óc của người viết ra nó. Trong văn nghệ, bán trí óc của người
khác để kiếm ăn là một việc làm rất bẩn mà đám văn nghệ sĩ đàn
em nghèo rớt mồng tơi còn cố tránh, huống hồ là một vị đầu đàn chủ
tịch Hội Thơ như anh Sinh thì không thể nào anh lại cam tâm làm điều sai
trái đó được.
Anh Sinh đã khẳng định tài năng của
Huệ Nhật trong Lời Bạt của anh đăng cuối tập sách của Huệ Nhật, rằng:
"Với lý luận sắc bén và tự tin; với lối hành văn lôi cuốn , lời
lẽ súc tích,tác giả đã làm cho người đọc say mê từ đầu đến cuối.
Đọc xong, chúng ta mới hiểu nỗi lòng tác giả phải lựa chọn dứt
khóat con đường hành đạo để đi..." Ở đây rõ ràng là có hai vế:
(1) Tán và (2) Tụng. Tán là vế đàn dạo mở đầu nên dẫu có hứng chí
ngó gà hóa cuốc thì cũng không sao. Nhưng đến vế chính, tụng, thì không
ai hiểu anh Sinh đã "hiểu nỗi lòng" của Huệ Nhật như thế nào?
Nghĩa là anh Sinh đã hiểu Phật giáo qua lăng kính "hành đạo" của
Huệ Nhật? Nếu thế, thì quả thật là một đại họa cho Hội Thơ Tài Tử
vì người lãnh đạo một hội thơ hội tụ nhiều khuynh hướng mà lại
nhìn thế sự một cách hời hợt và vô tâm như vậy thì làm sao đủ bản
lĩnh để đọc thơ, nhất là thơ Thiền của anh chị em?! Tôi vẫn chưa tin
là anh Sinh đã nói hết suy nghĩ của riêng anh khi ngỏ lời cho Huệ Nhật.
Bởi vậy, vì kính mến anh Sinh nên
người ta tin rằng, việc làm của Anh Lê Quang Sinh không phải là một việc
làm "Mờ mắt vì tiền" hay "Vô ý thức" như một số người
nổi giận nói quàng mà nhất định phải có những mục tiêu cao cả và
sâu xa nào khác.
Riêng cá nhân tôi, vì vốn quý mến
anh Sinh nên tôi cũng chân thành tin rằng, anh Sinh là một người đàn anh với
tuổi đời trên 70, mọi việc làm của anh đều có sự tính toán cẩn trọng
và suy nghĩ chín chắn. Ở vào giai đoạn "thất thập cổ lai hy" làm
sao anh lại có thể tiếp tay cho một tập sách nhận định về Phật giáo
một cách vụng về, thiển cận và bôi bác như thế được. Cũng như vừa
là một tín đồ của đạo Chúa, cũng vừa là người làm công việc thi ca
nghệ thuật thì làm sao anh Sinh có thể chấp nhận những lời ca tụng
Chúa một cách sống sượng, nghèo nàn và vớ vẩn thiếu hẳn tính nghệ
thuật của Huệ Nhật đầy dẫy trong tập sách. Và sau hết, là một chiến
sĩ quốc gia chống Cộng thì làm sao anh Sinh có thể nghe lọt tai luận điệu
chống Cộng ồn ào, rỗng tuếch, nông cạn và lối nói ngạo mạn, trịch
thượng, lên lớp dạy người Việt chống Cộng của một kẻ thời cơ chủ
nghĩa, theo gió phất cờ đang nằm trong món hàng xuất khẩu lao động của
nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam vừa gửi qua Đức như Nguyễn Huệ Nhật được?!
Nói tóm lại là tôi đã đề nghị
với những người mà tôi được biết là hãy nhìn kỹ, nhưng hãy khoan vội
vàng phê phán hay kết luận về việc làm của anh Sinh.
Với những tình cảm nồng hậu và
lòng kính trọng của đa số quần chúng cũng như của bản thân tôi đang dành
cho anh Sinh, tôi tin rằng, nhất định anh Như Hoa Lê Quang Sinh sẽ không làm
cho chúng ta thất vọng.
Kính mời độc giả độc giả đọc thêm
bài:
Home